Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Offenbar hast du diese Funktion zu schnell genutzt. Du wurdest vorübergehend von der Nutzung dieser Funktion blockiert.
Hoa Kỳ có nhiều cơ sở đào tạo bậc cao hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới và quan trọng hơn cả là chất lượng cao của các cơ sở đào tạo học thuật này. Hầu hết các trường Cao đẳng và Đại học của Mỹ đều cung cấp các chương trình giáo dục hàng đầu với đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao. Các nghiên cứu tại nhiều trường đại học này rất tiên tiến và thường được xuất bản trên các tạp chí trên toàn thế giới. Nhiều giáo sư tại các trường này là những nhà chức trách hàng đầu trong lĩnh vực của họ. Danh sách các cơ sở học tập đẳng cấp thế giới ở Hoa Kỳ là vô tận và bao gồm, nhưng không giới hạn: Đại học Stanford, Harvard, Yale, Cornell, Viện Công nghệ California, UC Berkeley, Đại học Pennsylvania, MIT, John Hopkins, Đại học Northwestern,…
Một trong những điều tuyệt vời nhất khi học tập tại Hoa Kỳ là vô số lựa chọn về môi trường học tập với chất lượng cao dành cho học sinh, sinh viên. Vì Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn với nguồn tài nguyên phong phú, hầu hết mọi ngành học đều có sẵn trong nước. Tại đất nước cờ hoa này, người ta có thể nghiên cứu mọi thứ từ lịch sử Nga đến vật lý hạt nhân. Đó là lý do tại sao người nước ngoài có thể chọn chương trình đào tạo tại Hoa Kỳ để học tập. Nếu bạn có thể nhận thức được lĩnh vực mà mình mong muốn theo đuổi, bạn có thể tìm một nơi nào đó ở Mỹ để nghiên cứu vấn đề đó. Chắc chắn, đây sẽ là môi trường thuận lợi cho những nghiên cứu của bạn.
Bất kể học sinh chọn theo đuổi bằng cấp nào trong trường, học sinh đều cần sử dụng máy tính và các công nghệ khác để phục vụ quá trình học tập. Nhiều trường học ở Mỹ kết hợp công nghệ mới nhất vào chương trình giảng dạy của họ. Đồng thời, khuyến khích sinh viên đạt được trình độ thông thạo trước khi họ đi làm. Công nghệ chuyên biệt, chẳng hạn như thiết bị y tế mới nhất trong các trường y, cho phép mỗi sinh viên phát huy tối đa tiềm năng thực sự của mình và tích lũy kinh nghiệm có thể bán được trong thế giới thực.
Do nước Mỹ sở hữu vô số tài nguyên phong phú nên cơ hội được đào tạo thực tế liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu tại đây là rất lớn. Hầu hết các trường Cao đẳng và Đại học tại Mỹ đã thiết lập mối liên kết với các nhà tuyển dụng và các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Từ đó, tạo ra nhiều cơ hội để sinh viên có được kinh nghiệm thực tế. Những trải nghiệm thực tế này có ý nghĩa vô giá với quá trình làm việc của mỗi học sinh, sinh viên sau này. Nhiều trường Đại học thậm chí còn yêu cầu sinh viên phải được đào tạo thực tế để tốt nghiệp. Trong một số lĩnh vực đặc thù, những cơ hội này sẽ không có ở bất kỳ nền giáo dục của quốc gian nào khác trên thế giới.
Ngày nay, các trường Cao đẳng và Đại học Mỹ đang tập trung vào các khía cạnh toàn cầu của mỗi môn học, chuẩn bị tốt hơn cho sinh viên với tầm nhìn toàn cầu về lĩnh vực của họ. Sinh viên không còn có thể chỉ tập trung vào các khu vực địa lý nhất định khi được đào tạo học thuật. Hầu hết các cơ sở học tập của Hoa Kỳ đã nhận ra điều này và đưa ra một chương trình giảng dạy toàn cầu và toàn diện hơn để đáp ứng những xu hướng mới này.
Đặc trưng lớn nhất của hệ thống giáo dục Mỹ chính là sự tự do và tôn trọng tự do cá nhân. Ở Mỹ, học sinh được quyền chủ động lựa chọn và theo đuổi những gì mà họ yêu thích. Giáo viên sẽ chỉ là người định hướng và khuyến khích học sinh theo học những gì phù hợp nhất với khả năng của họ. Không những thế, sự tự do trong giáo dục Mỹ đặc biệt được thể hiện qua các giờ học. Ở đó, học sinh được quyền nêu lên quan điểm cá nhân, thỏa sức sáng tạo còn giáo viên sẽ là người lắng nghe và nắm bắt tư tưởng của học sinh. Bởi thế, mối quan hệ giữa học sinh, sinh viên và giáo viên ở Mỹ trở nên rất thân thiện, gần gũi.
Vì hệ thống trường học của Hoa Kỳ sử dụng các đơn vị tín chỉ, tạo điều kiện cho sinh viên đi làm nên hầu hết các trường đều cung cấp các chương trình học mang tính chất linh hoạt. Điều này có nghĩa là học sinh có thể chủ động lựa chọn thời điểm tham gia các lớp học, chủ động đăng ký số lượng lớp học trong mỗi học kỳ hoặc mỗi quý và chủ động tham gia vào các lớp học tự chọn hoặc lớp học ngoại khóa… Vì thế, nền giáo dục Hoa Kỳ phù hợp với nhu cầu đa dạng của từng học sinh.
Nước Mỹ là nơi tập trung nhiều người từ khắp nơi trên thế giới. Người ta sẽ thấy hầu hết người Mỹ rất hiếu khách, thân thiện, tốt bụng, hào phóng và chấp nhận người nước ngoài. Tất nhiên, có một vài trường hợp ngoại lệ, như ở bất kỳ quốc gia nào, nhưng đây không phải là tiêu chuẩn. Nhìn chung, những người này vui tính, hòa đồng, đổi mới và ham học hỏi. Đây là những đặc điểm mà nhiều sinh viên quốc tế áp dụng và mang về nhà. Đồng thời, cũng tạo nên môi trường thuận lợi cho quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên ngoại quốc.
Nhiều du học sinh Mỹ nhận ra rằng bạn bè và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống ở trường có giá trị ngang với bản thân việc giáo dục. Có những tình bạn suốt đời được hình thành và phát triển tại đây. Những bài học về kinh nghiệm sống cùng với những đặc trưng về văn hóa với du học sinh từ khắp nơi trên thế giới sẽ là nguồn kiến thức là vô giá đối với mỗi người.
Theo tra cứu của TS Nguyễn Tuấn Minh, ĐH Monash (Úc) và một số thành viên của diễn đàn Liêm chính khoa học (LCKH - một diễn đàn trên
lập ra để thảo luận các vấn đề liên quan), công bố đầu tiên của nhà khoa học nữ Việt Nam là bài
của GS Võ Hồng Anh, đăng trên Doklady Akademii Nauk SSSR (Báo cáo của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô) năm 1965, về lĩnh vực thủy động lực học (Hydromechanics).
Nhà khoa học nữ người Việt đầu tiên là TS Hoàng Thị Nga (Báo Thanh Niên đã có nhiều bài phản ánh) sinh năm 1903, quê ở làng Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông (cũ), nay là TP.Hà Nội. Thân phụ của bà là quan tuần phủ Hoàng Huân Trung. Anh em của bà có nhiều người là trí thức “Tây học”. Bà từng học
gái (thời đó ở phố Hàng Trống, Hà Nội), sau học trường sư phạm (ở phố Hàng Bài, Hà Nội). Sau khi tốt nghiệp sư phạm, bà từng dạy học ở Đáp Cầu, Bắc Ninh. Sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất ở Việt Nam, bà sang Pháp học tú tài phần hai rồi vào học tại Viện Khoa học (Faculté des Sciences) ở Paris. Sau khi đỗ cử nhân về khoa học, bà học tiến sĩ và bảo vệ luận án tiến sĩ vào ngày 19.3.1935.
Tiếp theo là một bài báo về lĩnh vực vật lý toán (
. Đây là một tạp chí uy tín của Nhà xuất bản Elsevier, Hà Lan (là một nhà xuất bản lớn bậc nhất
về xuất bản khoa học). GS Nguyễn Thị Hồng bảo vệ tiến sĩ ở Viện Vật lý hạt nhân Dubna (Liên Xô) năm 1974 và bảo vệ tiến sĩ khoa học năm 1982 cũng ở Viện Dubna.
Cũng theo TS Nguyễn Tuấn Minh và nhóm LCKH, một trong những nhà khoa học nữ có công bố quốc tế sớm còn có TS Nguyễn Thị Tâm Bắc, ngành toán, với bài Representing positive-definite generalized kernels in terms of eigenfunctions of partial differential expressions đăng trên tạp chí Ukrainian Mathematical Journal năm 1970. Ngoài ra, TS Lê Vũ Anh (con gái cố Tổng bí thư Lê Duẩn) bảo vệ tiến sĩ ở ĐH Tổng hợp Lomonosov (Liên Xô) năm 1979 cũng đăng bài Classical asymptotic behavior of the free Schrödinger equation for calculating corrections in the stationary phase method trên tạp chí Theoretical and Mathematical Physics năm 1975. “Đáng tiếc chị qua đời khi sinh con năm 1981, khi sự nghiệp đang dang dở”, TS Minh nhận xét.
nổi tiếng nhất trong nhiều thập kỷ qua là GS Hoàng Xuân Sính, học trò của nhà toán học Pháp Alexander Grothendieck (huy chương Fields 1966). Bà bảo vệ luận án tiến sĩ nhà nước (doctorat d'État, nay tương đương với tiến sĩ khoa học) tại ĐH Paris 7 (Pháp) vào năm 1975. Có thể nói, bà là nhà khoa học nữ đầu tiên của Việt Nam có bằng doctorat d'État.
Theo tìm hiểu của Thanh Niên, các nữ khoa học chưa được nhóm LCKH “điểm danh” là GS Ngô Thị Thuận (ngành hóa học) và GS Nguyễn Thị Lê, dù họ cũng đã sớm có công bố quốc tế và có hoạt động khoa học tích cực về sau, trong thời gian công tác trong nước. GS Ngô Thị Thuận học đại học và làm nghiên cứu sinh (cả tiến sĩ và tiến sĩ khoa học) ở ĐH Tổng hợp Lomonosov. Năm 1964 và 1965, khi đang làm tiến sĩ, bà đã có 2 bài báo quốc tế trên tạp chí Doklady Akademii Nauk SSSR. Trao đổi với Thanh Niên, GS Thuận nói: “Tôi sang Liên Xô làm tiến sĩ năm 1962. Cùng đi với tôi đợt đó, giới nữ chỉ có một người nữa ngành sinh là chị Nguyễn Thị Lê. Về sau, chị Lê cũng là nhà khoa học tên tuổi, có nhiều công bố tốt”.
Cũng theo tìm hiểu của Thanh Niên, GS Nguyễn Thị Hồng là phu nhân của GS - Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ (nay là Viện Hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam). Suốt cuộc đời làm khoa học của mình, GS Hồng gắn bó với Viện Vật lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học công nghệ Việt Nam và tiếp tục có nhiều công bố quốc tế. Bà mất hồi đầu thập niên 1990 vì bạo bệnh, trước khi nghỉ hưu.
Còn GS Võ Hồng Anh vẫn được truyền thông trước đây nhắc đến thường xuyên bởi bà không chỉ là con gái của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà cách mạng Nguyễn Thị Quang Thái (em ruột nhà cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai) mà còn là một trong những nhà khoa học nữ có nhiều thành tựu đáng trân trọng. Bà bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ (nay gọi chung là tiến sĩ) năm 1969 về lý thuyết plasma ở Viện Dubna (Liên Xô), bảo vệ luận án tiến sĩ khoa học năm 1982 ở viện này. Năm 1988, bà được trao giải thưởng Kovalevskaia (một giải thưởng quốc tế dành cho các nhà khoa học nữ). Bà cũng gắn bó lâu năm với Viện Vật lý, có nhiều công bố quốc tế. Tuy nhiên, bà cũng sớm qua đời vào năm 2009 vì bạo bệnh.
Còn TS Nguyễn Thị Tâm Bắc từng là Phó chủ nhiệm khoa Toán - Tin, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, là người cả cuộc đời gắn bó với khoa Toán - Tin. Theo GS Đỗ Đức Thái, Chủ nhiệm khoa Toán - Tin, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, người từng công tác với TS Tâm Bắc suốt 20 năm, thì TS Tâm Bắc là một người có uy tín về độ nghiêm túc trong công việc, có nhiều cố gắng trong chuyên môn.
, TS Minh nhận xét: “Bình thường với một phụ nữ, việc hy sinh thời gian vì khoa học đã rất khó khăn vì họ cần nhiều thời gian làm thiên chức của người phụ nữ là chăm lo cho gia đình, chăm sóc chồng con. Trong hoàn cảnh những năm 1960 - 1970 khi đất nước đang giai đoạn chiến tranh ác liệt, thì chuyện làm khoa học đối với các nữ tiền bối quả thật là điều thần kỳ. Vào giai đoạn đó, họ là những nữ sinh viên, nghiên cứu sinh được nhà nước cử đi học ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Họ đã làm rất xuất sắc nhiệm vụ học tập và nghiên cứu của mình không kém các đồng nghiệp nam giới. Giá như nhà nước tạo điều kiện hơn nữa cho những nhà khoa học nữ này yên tâm công tác thì có lẽ họ đã có một sự nghiệp khoa học rất vẻ vang”.
Giáo dục Hoa Kỳ từ lâu đã trở thành lựa chọn số một của học sinh, sinh viên trên toàn thế giới. Vậy vì sao nền giáo dục của đất nước cờ hoa này lại thu hút nhiều học sinh, sinh viên quốc tế đến vậy? Cùng ICS Việt Nam trả lời câu hỏi này thông qua việc tìm hiểu những điểm nổi bật của giáo dục nước Mỹ.